Chào mừng bạn đến với Cổng thông tin điện tử Văn phòng ĐĐBQH và HĐND tỉnh An Giang

Cổng Thông tin điện tử

VĂN PHÒNG ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VÀ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN

tỉnh An Giang

Bộ Tư pháp trả lời kiến nghị cử tri (tiếp theo)

Ngày đăng 02/05/2024

Xem với cở chữ : A- A A+

1. Về ban hành văn bản hướng dẫn việc ban hành thông cáo báo chí      về văn bản quy phạm pháp luật do cấp tỉnh ban hành      

     

Cử tri kiến nghị:

Đề nghị Bộ Tư pháp ban hành văn bản hướng dẫn việc ban hành thông cáo báo chí về văn bản quy phạm pháp luật do cấp tỉnh ban hành để địa phương có căn cứ triển khai thực hiện.

Bộ Tư pháp trả lời như sau:

Điểm c Mục 3 Phần IV của Đề án “Tăng cường năng lực tiếp cận pháp luật của người dân” ban hành tại Quyết định số 977/QĐ-TTg ngày 11/8/2022 của Thủ tướng Chính phủ (Đề án 977) giao Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện nhiệm vụ xây dựng, ban hành Thông cáo báo chí về văn bản quy phạm pháp luật do chính quyền địa phương cấp tỉnh ban hành. Đây là nhiệm vụ mới được xác định tại Đề án 977. Triển khai nhiệm vụ nêu trên, ngày 30/5/2023, Bộ Tư pháp đã có Công văn số 2149/BTP-PBGDPL về việc đôn đốc thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp của Đề án “Tăng cường năng lực tiếp cận pháp luật của người dân”, trong đó Bộ Tư pháp đề nghị Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo, phân công các cơ quan, đơn vị chủ trì tham mưu việc ban hành Thông cáo báo chí về văn bản quy phạm pháp luật do chính quyền địa phương cấp tỉnh ban hành. Do đó, để bảo đảm chủ động cho các địa phương trong triển khai nhiệm vụ được giao, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cần căn cứ điều kiện thực tiễn để chỉ đạo, phân công các cơ quan, đơn vị chủ trì tham mưu việc ban hành Thông cáo báo chí về văn bản quy phạm pháp luật do chính quyền địa phương cấp tỉnh ban hành, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận thông tin pháp luật do chính quyền địa phương cấp tỉnh ban hành được kịp thời, đầy đủ, chính xác; đồng thời, đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ truyền thông chính sách, pháp luật của địa phương.

 

 

2. Về sử dụng kết quả đánh giá đạt chuẩn tiêu chí tiếp cận pháp luật     để xét đạt chuẩn đô thị văn minh      

     

Cử tri kiến nghị:

Về sử dụng kết quả đánh giá đạt chuẩn tiêu chí tiếp cận pháp luật để xét đạt chuẩn đô thị văn minh.

Đề nghị quy định rõ trong trường hợp tổ chức xét, công nhận địa phương đạt chuẩn đô thị văn minh được tổ chức trước thời điểm đánh giá đạt chuẩn tiếp cận pháp luật thì sử dụng kết quả đánh giá đạt chuẩn tiếp cận pháp luật của năm trước liền kề năm đánh giá hoặc sử dụng kết quả của năm đánh giá nhưng phải tuân thủ đúng quy định của pháp luật có liên quan.

Bộ Tư pháp trả lời như sau:

Việc hướng dẫn sử dụng kết quả của các chỉ tiêu, tiêu chí thành phần nói chung và kết quả đánh giá đạt chuẩn tiếp cận pháp luật nói riêng trong xét, công nhận đạt chuẩn đô thị văn minh theo Quyết định số 04/2022/QĐ-TTg ngày 18/02/2022 của Thủ tướng Chính phủ, thuộc trách nhiệm của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Trên cơ sở phản ánh của địa phương, Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật đã tổ chức buổi làm việc với Cục Văn hóa cơ sở - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (ngày 20/4/2023), đồng thời có Công văn đề nghị Cục Văn hóa cơ sở tham mưu Lãnh đạo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có văn bản hướng dẫn địa phương về nội dung này (Công văn số 317/PBGDPL-TCHG ngày 13/7/2023). Đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh Tây Ninh thực hiện theo các hướng dẫn của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

 

 

3. Về sửa đổi nội dung 2 của chỉ tiêu 2, tiêu chí 3 quy định tại Phụ lục 1 Thông tư số 09/2021/TT-BTP của Bộ Tư pháp     

Cử tri kiến nghị:

Về sửa đổi nội dung 2 của chỉ tiêu 2, tiêu chí 3 quy định tại Phụ lục 1 Thông tư số 09/2021/TT-BTP của Bộ Tư pháp.

Bộ Tư pháp trả lời như sau:

Để bảm bảo nhu cầu hoạt động của Tổ hòa giải, tại điểm đ khoản 17 Điều 3 Thông tư số 56/2023/TT-BTC ngày 18/8/2023 của Bộ Tài chính quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho công tác PBGDPL, chuẩn tiếp cận pháp luật và hòa giải ở cơ sở (thay thế Thông tư liên tịch số 100/2014/TTLT-BTC-BTP) quy định nội dung và mức chi hỗ trợ hoạt động của tổ hòa giải (chi mua văn phòng phẩm, sao chụp tài liệu, nước uống phục vụ các cuộc họp của tổ hòa giải): 150.000 đồng/tổ hòa giải/tháng. Căn cứ vào mức chi nêu trên, Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định mức chi cụ thể để thực hiện cho phù hợp với tình hình thực tiễn và khả năng cân đối của ngân sách địa phương.

Do đó, tại nội dung 2 của chỉ tiêu 2, tiêu chí 3 Phụ lục 1 Thông tư số 09/2021/TT-BTP quy định: “Tổ hòa giải được hỗ trợ kinh phí đúng mức chi theo quy định của cơ quan có thẩm quyền” nhằm bảo đảm tính định lượng của nội dung chỉ tiêu, tạo thuận lợi cho trong việc đánh giá, kiểm chứng.

 

 

4. Về quan tâm hỗ trợ về công tác tập huấn nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật, hòa giải ở cơ sở    

     

Cử tri kiến nghị:

Đề nghị Bộ Tư pháp quan tâm hỗ trợ về công tác tập huấn nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật, hòa giải ở cơ sở, xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật.

Bộ Tư pháp trả lời như sau:

- Hàng năm, Bộ Tư pháp đều tổ chức các Hội nghị tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng PBGDPL cho các báo cáo viên pháp luật Trung ương, báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh (tối thiểu 03 hội nghị/ năm[1]). Ngoài ra, Bộ Tư pháp cũng tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở, xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật cho công chức Sở Tư pháp tại 03 khu vực: Bắc, Trung, Nam.

Thực hiện Quyết định số 25/2021/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ quy định về xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật, từ năm 2021 đến năm 2023, Bộ Tư pháp đã tổ chức 12 Hội nghị hướng dẫn nghiệp vụ đánh giá, công nhận cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật gắn với tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của địa phương cho Lãnh đạo Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp các tỉnh (Hà Giang, Gia Lai, Đồng Nai, Hà Tĩnh, Nam Định, Sóc Trăng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Hòa Bình, Sơn La, Bắc Kạn, Trà Vinh). Hàng năm, Bộ Tư pháp đã lựa chọn những địa phương có tỷ lệ đạt chuẩn tiếp cận pháp luật thấp để tổ chức Hội nghị tập huấn hướng dẫn về nghiệp vụ xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật hoặc theo đề nghị của địa phương có nhu cầu tập huấn nghiệp vụ về công tác chuẩn tiếp cận pháp luật.

Thực hiện Quyết định số 428/QĐ-TTg ngày 18/4/2019 phê duyệt Đề án “Nâng cao năng lực đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở giai đoạn 2019 - 2022”, giai đoạn 2021 - 2023, Bộ Tư pháp đã tổ chức 10 hội nghị hướng dẫn nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở cho tập huấn viên cấp tỉnh và hòa giải viên tại các địa phương: Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, Hồ Chí Minh, Ninh Bình, Đồng Nai, Tuyên Quang, Nghệ An, Bắc Kạn, Lào Cai. Tại những địa phương làm điểm, Bộ Tư pháp trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức một số lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức cho hòa giải viên ở cơ sở.

Ngoài ra, Bộ Tư pháp xây dựng và đăng tải nhiều bài giảng điện tử về tập huấn nghiệp vụ PBGDPL, hòa giải ở cơ sở, xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật trên Trang Thông tin điện tử PBGDPL thuộc Cổng Thông tin điện tử Bộ Tư pháp để các địa phương khai thác, sử dụng.

 

 

5. Về hướng dẫn, hỗ trợ các địa phương để nhân rộng các mô hình  tuyên truyền pháp luật hiệu quả   

     

Cử tri kiến nghị:

Đề nghị Bộ Tư pháp hướng dẫn, hỗ trợ các địa phương để nhân rộng các mô hình tuyên truyền pháp luật hiệu quả như mô hình câu lạc bộ pháp luật.

Bộ Tư pháp trả lời như sau:

Thời gian qua, trên cơ sở tổng kết các Chương trình, Đề án về PBGDPL và tổng kết công tác hàng năm của Hội đồng phối hợp PBGDPL Trung ương, nhất là tổng kết thi hành Luật PBGDPL, Bộ Tư pháp đã giới thiệu các mô hình PBGDPL hay, hiệu quả, trong đó có mô hình Câu lạc bộ pháp luật, để các Bộ, ngành, địa phương tham khảo. Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp cũng đã phối hợp với Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) xây dựng Tài liệu hướng dẫn áp dụng khung mô hình PBGDPL ở cấp cơ sở. Hiện nay, Bộ Tư pháp đang triển khai tập huấn Tài liệu này tại một số địa phương, trên cơ sở kết quả tập huấn, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục hoàn thiện Tài liệu và nhân rộng để các địa phương tham khảo, chủ động phát hiện, lựa chọn những cách làm hay, mô hình PBGDPL hiệu quả phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và đối tượng cụ thể ở từng địa phương.

 

 

 

6. Về nghiên cứu xây dựng Hệ thống Phần mềm điện tử đánh giá, công nhận xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật  

     

Cử tri kiến nghị:

Đề nghị Bộ Tư pháp chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan: Nghiên cứu xây dựng Hệ thống Phần mềm điện tử đánh giá, công nhận xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật để áp dụng thống nhất trên phạm vi toàn quốc.

Bộ Tư pháp trả lời như sau:

Ngày 21/3/2023, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký Quyết định số 425/QĐ-BTP ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Quyết định số 25/2021/QĐ-TTg và nhiệm vụ của Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới năm 2023, trong đó giao Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật nghiên cứu, khảo sát đề xuất xây dựng Phần mềm phục vụ quản lý, chấm điểm, đánh giá, công nhận cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật. Trên cơ sở nhiệm vụ được giao, năm 2023, Cục đã triển khai việc khảo sát để phục vụ đề xuất xây dựng Phần mềm và đưa nhiệm vụ xây dựng, vận hành Phần mềm là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Kế hoạch công tác PBGDPL, hòa giải ở cơ sở, tiếp cận pháp luật năm 2024. Dự kiến Phần mềm đánh giá, công nhận xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật thuộc Cổng Thông tin điện tử PBGDPL quốc gia.

 

 

7. Về tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương tiếp tục tham mưu, tổ chức thực hiện hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật

     

Cử tri kiến nghị:

Để tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương tiếp tục tham mưu, tổ chức thực hiện hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong năm 2024 và những năm tiếp theo, đề nghị Bộ Tư pháp xem xét, điều chỉnh nội dung "Chủ trì tham mưu tổ chức các cuộc thi trực tuyến tìm hiểu pháp luật" cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của từng địa phương, đặc biệt là đối với địa phương còn nhiều khó khăn; hoặc có hướng dẫn cụ thể đối với nội dung này để đảm bảo có sự chỉ đạo thống nhất chung trong tổ chức thực hiện, tạo điều kiện thuận lợi để các địa phương hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao và đạt điểm tối đa trong công tác thi đua.

Bộ Tư pháp trả lời như sau:

Nhằm đẩy mạnh các hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, đồng thời nhằm đa dạng hóa các hình thức PBGDPL nên tại Bảng Tiêu chí đánh giá, chấm điểm, xếp hạng thi đua Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương năm 2023 có quy định tiêu chí Chủ trì tham mưu tổ chức các cuộc thi trực tuyến tìm hiểu pháp luật”. Tuy nhiên, qua theo dõi kết quả chấm điểm năm 2023, có nhiều địa phương chưa thực hiện được tiêu chí này. Do đó, trong năm 2024 và những năm tiếp theo Bộ Tư pháp sẽ rà soát các tiêu chí bảo đảm tính khả thi, phù hợp với nguồn lực của địa phương và có hướng dẫn cụ thể để có sự thống nhất chung trong tổ chức thực hiện.

 

8. Về nghiên cứu, ban hành chính sách hỗ trợ kinh phí cho người dân tham dự các buổi tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật

     

Cử tri kiến nghị:

Đề nghị Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Tài chính nghiên cứu, ban hành chính sách hỗ trợ kinh phí cho người dân tham dự các buổi tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nhằm tạo động lực cho người dân hăng hái tham dự, góp phần nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.

Bộ Tư pháp trả lời như sau:

Ngày 18/8/2023, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 56/2023/TT-BTC quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm cho công tác PBGDPL, chuẩn tiếp cận pháp luật và hoà giải ở cơ sở và có hiệu lực kể từ ngày 06/10/2023.

Thông tư số 56/2023/TT-BTC đã quy định cụ thể nội dung và mức chi cho việc tổ chức đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ, kỹ năng PBGDPL, nhất là cho người dân tại cơ sở. Theo đó, Thông tư quy định cụ thể như sau “Nội dung và mức chi hỗ trợ tiền ăn, tiền thuê phòng nghỉ, tiền phương tiện đi lại đối với học viên là đại biểu ở cấp xã thực hiện theo mức chi hỗ trợ đối với đại biểu là khách mời không trong danh sách trả lương của cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp quy định tại Thông tư số 40/2017/TT-BTC ngày 28/4/2017 của Bộ Tài chính quy định chế độ công tác phí, chế độ chi hội nghị”. Như vậy, căn cứ theo quy định trên, người dân tham dự các buổi tuyên truyền, PBGDPL thuộc đối tượng trên (là đại biểu ở cấp xã, là khách mời không trong danh sách trả lương của cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp) sẽ được hỗ trợ tiền ăn, tiền thuê phòng nghỉ, tiền phương tiện đi lại.

Bộ Tư pháp đề nghị địa phương nghiên cứu, quán triệt và áp dụng thực hiện cụ thể các quy định tại Thông tư số 56/2023/TT-BTC; tích cực, chủ động tham mưu, đề xuất, tranh thủ tối đa sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể tại địa phương, đặc biệt là sự quan tâm của Hội đồng nhân dân tỉnh trong việc ban hành văn bản, chính sách để giải quyết các vấn đề của địa phương trong đó có bảo đảm nguồn lực để triển khai công tác PBGDPL cho người dân tại cơ sở để có thể áp dụng các quy định về kinh phí một cách phù hợp, khả thi.

 

9. Về kịp thời ban hành Đề cương tuyên truyền các văn bản pháp luật mới ngay sau khi văn bản được Quốc hội thông qua   

     

Cử tri kiến nghị:

Đề nghị Bộ Tư pháp kịp thời ban hành Đề cương tuyên truyền các văn bản pháp luật mới ngay sau khi văn bản được Quốc hội thông qua để địa phương kịp thời nắm bắt, triển khai thực hiện.

Bộ Tư pháp trả lời như sau:

Hàng năm, thực hiện trách nhiệm được giao theo quy định của Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, để bảo đảm quyền được thông tin về pháp luật của công dân, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác PBGDPL, ngay sau khi kết thúc các kỳ họp Quốc hội, Bộ Tư pháp đã kịp thời ban hành văn bản hướng dẫn các Bộ, ngành, địa phương triển khai các Luật, Nghị quyết được thông qua tại các kỳ họp.

Đồng thời, Bộ Tư pháp và các Bộ, ngành, địa phương đã kịp thời triển khai phổ biến các văn bản này dưới nhiều hình thức đa dạng, phong phú như sau:

- Thực hiện cập nhật, đăng tải công khai toàn văn nội dung văn bản Luật, Pháp lệnh trên Công báo, Cơ sở Dữ liệu quốc gia văn bản pháp luật, Cổng Thông tin điện tử của Bộ, ngành, địa phương, các cơ quan báo chí, truyền thông và các hình thức thích hợp khác để cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và Nhân dân dễ dàng tiếp cận, khai thác và sử dụng khi có nhu cầu.

- Các Bộ, ngành chủ trì soạn thảo Luật, Pháp lệnh, Nghị quyết phối hợp với Bộ Tư pháp kịp thời biên soạn các tài liệu giới thiệu Luật, Pháp lệnh, Nghị quyết để đăng tải trên Trang Thông tin điện tử PBGDPL thuộc Cổng Thông tin điện tử của Bộ Tư pháp.

Trong thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục nghiên cứu, đề xuất, chỉ đạo thực hiện nhiều giải pháp, đa dạng hóa các hình thức, cách thức triển khai, phổ biến các Luật, Pháp lệnh mới trong đó có kịp thời xây dựng, đăng tải Đề cương giới thiệu văn bản pháp luật mới.

 

 

10. Về tăng cường hỗ trợ công tác PBGDPL, hòa giải cơ sở cho địa phương  

     

Cử tri kiến nghị:

Đề nghị Bộ Tư pháp - cơ quan Thường trực Hội đồng phối hợp PBGDPL Trung ương tăng cường hỗ trợ công tác PBGDPL, hòa giải cơ sở cho địa phương thông qua tập huấn nghiệp vụ theo hình thức Hội nghị trực tuyến để tiết kiệm thời gian, kinh phí đi lại, đồng thời, giúp cán bộ cơ sở củng cố nghiệp vụ.

Bộ Tư pháp trả lời như sau:

Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật quy định cụ thể trách nhiệm PBGDPL của các cơ quan, tổ chức, trong đó, Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm “tập huấn, bồi dưỡng, quản lý đội ngũ báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật”. Tuy nhiên, để tạo điều kiện cho địa phương, hàng năm, Bộ Tư pháp đều tổ chức các Hội nghị tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng PBGDPL cho các báo cáo viên pháp luật Trung ương (02 lớp/năm); tổ chức các Hội nghị tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng PBGDPL, hòa giải ở cơ sở, chuẩn tiếp cận pháp luật cho báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh trong khuôn khổ Chương trình, Đề án về PBGDPL tại 03 khu vực Bắc, Trung, Nam góp phần nâng cao năng lực cho đội ngũ này.

Để nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ cho đội ngũ công chức thực hiện công tác PBGDPL, năm 2023, Bộ Tư pháp đã tổ chức 01 lớp tập huấn kỹ năng truyền thông chính sách cho đội ngũ báo cáo viên pháp luật Trung ương và 02 lớp tập huấn kỹ năng truyền thông chính sách cho lãnh đạo Sở Tư pháp, báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện PBGDPL (Khu vực phía Bắc tại tỉnh Phú Thọ; Khu vực phía Nam tại thành phố Cần Thơ). Đồng thời, cử báo cáo viên pháp luật Trung ương của Bộ tham gia hỗ trợ địa phương tập huấn kỹ năng truyền thông cho đội ngũ thực hiện PBGDPL trên địa bàn.

Trong thời gian qua, Bộ Tư pháp cũng đã tích cực ứng dụng công nghệ thông tin trong PBGDPL, đặc biệt là các Hội nghị trực tuyến để đáp ứng yêu cầu thực tiễn hiện nay. Vì vậy, tiếp thu ý kiến của địa phương, trong thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ phối hợp với các cơ quan, đơn vị chức năng để tăng cường tổ chức các Hội nghị tập huấn, bồi dưỡng về các kỹ năng, nghiệp vụ nêu trên bằng hình thức trực tuyến.

 

 

11. Về đưa công tác PBGDPL là Chương trình mục tiêu quốc gia

     

Cử tri kiến nghị:

Đề nghị Hội đồng phối hợp PBGDPL Trung ương và Bộ Tư pháp tham mưu, đề xuất với Chính phủ đưa công tác PBGDPL là Chương trình mục tiêu quốc gia, có chiến lược, chương trình, kế hoạch thống nhất từ Trung ương đến địa phương cho công tác này.

Bộ Tư pháp trả lời như sau:

Hiện nay, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt 03 chương trình mục tiêu quốc gia:  Xây dựng nông thôn mới; phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; xóa đói giảm nghèo bền vững, trong đó có nhiệm vụ, nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật[1].

Trong thời gian tới, trên cơ sở tổng kết các Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021 - 2025 (Xây dựng nông thôn mới; phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; xóa đói, giảm nghèo bền vững), trong đó có nhiệm vụ về phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục nghiên cứu tính khả thi, từ đó, tham mưu, đề xuất các cấp có thẩm quyền ban hành văn bản chỉ đạo, định hướng, triển khai công tác này một cách phù hợp.

 

12. Về xây dựng tiêu chí đánh giá công tác hòa giải ở cơ sở đối với cấp xã, huyện, tỉnh

     

Cử tri kiến nghị:

Đề nghị Bộ Tư pháp: Xây dựng tiêu chí đánh giá công tác hòa giải ở cơ sở đối với cấp xã, huyện, tỉnh và tiêu chí đánh giá hòa giải viên để thống nhất trên phạm vi toàn quốc.

Bộ Tư pháp trả lời như sau:

Khoản 5 Điều 2 Luật Hòa giải ở cơ sở quy định: “Tổ hòa giải là tổ chức tự quản của nhân dân được thành lập ở cơ sở để hoạt động hòa giải theo quy định của Luật này”. Một trong những nguyên tắc tổ chức, hoạt động hòa giải ở cơ sở là “Tôn trọng sự tự nguyện của các bên; không bắt buộc, áp đặt các bên trong hòa giải ở cơ sở” (khoản 1 Điều 4 Luật Hòa giải ở cơ sở). Hòa giải viên tham gia công tác hòa giải hoàn toàn tự nguyện, vì cộng đồng (hòa giải viên không phải là cán bộ, công chức nhà nước), trong trường hợp hòa giải viên vi phạm nghĩa vụ, vi phạm nguyên tắc hòa giải hoặc không đủ điều kiện làm hòa giải viên theo quy định tại Điều 7 của Luật Hòa giải ở cơ sơ thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ra quyết định cho thôi làm hòa giải viên.

Do đó, việc đo lường chất lượng công tác hòa giải ở cơ sở trước hết là thực hiện tốt Luật Hòa giải ở cơ sở, Nghị định số 15/2014/NĐ-CP ngày 07/02/20214 và các văn bản liên quan.

 

 

13. Về nghiên cứu quy định về việc hình thành tổ hòa giải theo số lượng dân cư, địa bàn   

     

Cử tri kiến nghị:

Đề nghị Bộ Tư pháp: Nghiên cứu quy định về việc hình thành tổ hòa giải theo số lượng dân cư, địa bàn, việc lựa chọn hòa giải viên theo hướng chỉ định trong một số trường hợp không nhất thiết phải thực hiện qua cơ chế bầu.

Bộ Tư pháp trả lời như sau:

+ Khoản 1 Điều 12 Luật Hòa giải ở cơ ở quy định: Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã quyết định số lượng tổ hòa giải, hòa giải viên trong một tổ hòa giải căn cứ vào đặc điểm, tình hình kinh tế - xã hội, dân số của địa phương.

+ Một trong những tiêu chuẩn của hòa giải viên ở cơ sở là “có uy tín trong cộng đồng dân cư” (khoản 1 Điều 7 Luật Hòa giải ở cơ sở), thực tế cho thấy hòa giải viên ở cơ sở tiến hành hòa giải dựa trên uy tín, sự gương mẫu của cá nhân, gia đình hòa giải viên.

Trên cơ sở tổng kết, đánh giá kết quả 10 năm thi hành Luật Hòa giải ở cơ sở và đề xuất nêu trên Bộ Tư pháp sẽ tổng hợp, xem xét, nghiên cứu đề xuất cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, nếu thấy cần thiết.

 

 

14. Về ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về trình tự tổ chức tiến hành hòa giải của hòa giải viên  

     

Cử tri kiến nghị:

Đề nghị Bộ Tư pháp: Ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về trình tự tổ chức tiến hành hòa giải của hòa giải viên, giá trị pháp lý của biên bản hòa giải thành quy định tiêu chí đánh giá công tác hòa giải ở cơ sở.

Bộ Tư pháp trả lời như sau:

- Hòa giải ở cơ sở là việc hòa giải viên hướng dẫn, giúp đỡ các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật. Do tính chất hòa giải ở cơ sở đề cao quyền tự quyết, tự định đoạt của các bên tranh chấp; việc hòa giải phụ thuộc vào đối tượng, tính chất vụ việc, điều kiện, hoàn cảnh, mối quan hệ của các bên tranh chấp mà hòa giải viên lựa chọn cách thức hòa giải phù hợp nhất mang lại kết quả cao nhất. Vì vậy, pháp luật về hòa giải ở cơ sở không quy định về trình tự, thủ tục hòa giải để tránh sự “tố tụng hóa” hoạt động hòa giải ở cơ sở, ảnh hưởng đến quyền tự quyết, tự định đoạt của các bên.

Tuy nhiên, để giúp hòa giải viên ở cơ sở nắm được những việc cần làm khi tiến hành hòa giải, Bộ Tư pháp đã hướng dẫn các bước tiến hành hòa giải trong Bộ tài liệu Bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở cho hòa giải viên ban hành tại Quyết định số 1753/QĐ-BTP ngày 22/8/2016 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp (Phần II Tài liệu 3) và Tài liệu Bồi dưỡng nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở (dành cho đội ngũ hòa giải viên) ban hành tại Quyết định số 1852/QĐ-BTP ngày 01/9/2020 của Bộ Tư pháp. Quy trình tiến hành một cuộc hòa giải ở cơ sở đã được đăng tải trên Trang Thông tin điện tử phổ biến, giáo dục pháp luật thuộc Cổng Thông tin điện tử Bộ Tư pháp tai địa chỉ http://pbgdpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/Hoa-Giai-Co-So.aspx?ItemID=93. Đây là các Tài liệu để hòa giải viên tham khảo, hình dung cần chuẩn bị những vấn đề gì khi tiến hành hòa giải. Việc hòa giải cụ thể phụ thuộc vào các tình tiết tranh chấp, mâu thuẫn, nguyên nhân cụ thể mỗi vụ, việc và kinh nghiệp, kỹ năng, phương pháp của hòa giải viên ở cơ sở.

- Điều 24, 25 Luật Hòa giải ở cơ sở quy định về hòa giải thành, văn bản hòa giải thành và việc thực hiện thỏa thuận hòa giải thành. Hoạt động hòa giải ở cơ sở đề cao nguyên tắc quyền tự định đoạt, đề cao uy tín của các bên tranh chấp, các bên tự thỏa thuận với nhau về giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp và có trách nhiệm thực hiện thỏa thuận, kết quả giải quyết tranh chấp đó.

Bên cạnh đó, để nâng cao giá trị pháp lý của biên bản hòa giải thành, Chương XXXIII Bộ luật Tố tụng dân sự đã quy định thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án. Theo đó, các bên sau khi hòa giải thành có quyền yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành. Quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở của Tòa án có hiệu lực thi hành ngay, không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm và được thi hành theo pháp luật về Thi hành án dân sự. Ngày 05/5/2017, Bộ Tư pháp đã có Công văn số 1503/BTP-PBGDPL hướng dẫn thực hiện thủ tục yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở. Theo báo cáo của các địa phương về tổng kết thực hiện Chương trình phối hợp số 162/CTPH-TANDTC-BTP ngày 08/4/2019 giữa Bộ Tư pháp và Tòa án nhân dân tối cao, cho thấy sau khi hòa giải thành phần lớn các bên tự nguyện thi hành thỏa thuận hòa giải thành và ít có nhu cầu đề nghị Tòa án công nhận.

Các hướng dẫn về quy trình tiến hành một cuộc hòa giải ở cơ sở đã được Bộ Tư pháp hướng dẫn cụ thể; giá trị pháp lý của Biên bản hòa giải thành đã được Luật Hòa giải ở cơ sở và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định rõ ràng và đã có hướng dẫn của Bộ Tư pháp.

 

 

15. Về phối hợp với các cơ quan có liên quan miễn giảm hoặc không thu phí thực hiện thủ tục đề nghị tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở

     

Cử tri kiến nghị:

Đề nghị Bộ Tư pháp: Xem xét, phối hợp với các cơ quan có liên quan miễn giảm hoặc không thu phí thực hiện thủ tục đề nghị tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở để khuyến khích người dân thực hiện thủ tục này tại Tòa án.

Bộ Tư pháp trả lời như sau:

Theo quy định tại khoản 7 Điều 27 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án là một trong những yêu cầu về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

Theo đó, người nộp đơn yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở phải nộp tiền tạm ứng lệ phí giải quyết việc dân sự theo quy định tại khoản 2 Điều 146 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và khoản 1 Điều 36 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Mức lệ phí là 300.000 đồng quy định tại Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.

 Căn cứ các quy định trên, đối tượng được miễn, giảm lệ phí thực hiện thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án thực hiện theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 (Điều 11, 12, 13 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14).

Về đề xuất nêu trên, Bộ Tư pháp sẽ nghiên cứu, tổng hợp kiến nghị này và sẽ gửi đến cơ quan có thẩm quyền khi tổng kết việc thực hiện Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14.

 

 

16. Về cung cấp thông tin điện tử liên quan đến nhân thân của công dân

     

Cử tri kiến nghị:

Đề nghị Bộ Tư pháp kiến nghị ngành Tòa án cung cấp thông tin điện tử liên quan đến nhân thân của công dân (như thông tin bản án/quyết định ly hôn, tuyên bố mất tích, tuyên bố đã chết, hoặc mất năng lực hành vi dân sự,...) để phục vụ công tác tư pháp địa phương (nhất là công tác hộ tịch, công chứng).

Bộ Tư pháp trả lời như sau:

Hiện nay, khoản 1 Điều 30 Luật Hộ tịch đã quy định cụ thể trách nhiệm của Tòa án. Theo đó, trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật liên quan đến thay đổi hộ tịch của cá nhân theo quy định tại khoản 2 Điều 3 của Luật này, Tòa án nhân dân có thẩm quyền có trách nhiệm thông báo bằng văn bản kèm theo trích lục bản án, bản sao quyết định đến Ủy ban nhân dân nơi đã đăng ký hộ tịch của cá nhân để ghi vào Sổ hộ tịch; trường hợp nơi đăng ký hộ tịch là Cơ quan đại diện thì thông báo cho Bộ Ngoại giao để chuyển đến Cơ quan đại diện ghi vào Sổ hộ tịch.

Hình thức thông báo cho cơ quan đăng ký hộ tịch hiện đang được Tòa án thực hiện bằng việc gửi văn bản. Ghi nhận kiến nghị của địa phương, thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ trao đổi để Tòa án nhân dân tối cao bổ sung hình thức gửi văn bản điện tử đối với bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật liên quan đến thay đổi hộ tịch của cá nhân.

 

 

17. Về hướng dẫn cụ thể thẩm quyền tiếp nhận hồ sơ xin xác nhận có quốc tịch Việt Nam tại Sở Tư pháp đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài

     

Cử tri kiến nghị:

Đề nghị Bộ Tư pháp hướng dẫn cụ thể thẩm quyền tiếp nhận hồ sơ xin xác nhận có quốc tịch Việt Nam tại Sở Tư pháp đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, về thăm thân nhân, du lịch, và lưu trú trong khoảng thời gian ngắn ở Việt Nam.

Bộ Tư pháp trả lời như sau:

Theo quy định của Nghị định số 16/2020/NĐ-CP ngày 03/02/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành của Luật Quốc tịch năm 2020 thì “Người yêu cầu cấp Giấy xác nhận có quốc tịch Việt Nam nộp hồ sơ tại Sở Tư pháp, nơi người đó cư trú”. Vì vậy, để xác định thẩm quyền thụ lý hồ sơ đề nghị Sở Tư pháp căn cứ quy định tại Điều 11 của Luật Cư trú năm 2020 (áp dụng đối với công dân Việt Nam cư trú trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) “1. Nơi cư trú của công dân bao gồm nơi thường trú, nơi tạm trú; 2. Trường hợp không xác định được nơi thường trú, nơi tạm trú thì nơi cư trú của công dân là nơi ở hiện tại được xác định theo quy định tại khoản 1 Điều 19 của Luật này”. Do vậy, đối với những trường hợp là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, về thăm thân nhân, du lịch và lưu trú trong khoảng thời gian ngắn ở Việt Nam như Sở Tư pháp phản ánh sẽ không có thông tin về cư trú trong Cơ sở Dữ liệu quốc gia về dân cư để xác định thẩm quyền giải quyết việc xác nhận có quốc tịch Việt Nam.

 

 

18. Về đơn giản hóa các bước thao tác cũng như giảm bớt các trường thông tin cần phải nhập trên Hệ thống Dịch vụ công trực tuyến

     

Cử tri kiến nghị:

Đề nghị Bộ Tư pháp đơn giản hóa các bước thao tác cũng như giảm bớt các trường thông tin cần phải nhập trên Hệ thống Dịch vụ công trực tuyến nói chung để người sử dụng, đặc biệt là người dân thực hiện dễ dàng hơn.

Bộ Tư pháp trả lời như sau:

Thông tư số 15/2015/TT-BTP đã được thay thế bằng Thông tư số 04/2020/TT-BTP ngày 28/5/2020 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch. Thông tư số 04/2020/TT-BTP đã ban hành 19 biểu mẫu Tờ khai đăng ký hộ tịch (dùng cho đăng ký hộ tịch theo hình thức trực tiếp), đồng thời, cũng có những quy định mới tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong khi thực hiện thủ tục hành chính như: cho phép cam đoan về tình trạng hôn nhân, không cần xuất trình giấy tờ chứng minh mối quan hệ với người được ủy quyền (trong trường hợp người được ủy quyền là ông, bà, cha, mẹ, con, vợ, chồng, anh, chị, em ruột của người ủy quyền).

Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 01/2022/TT-BTP ngày 04/01/2022 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Nghị định số 87/2020/NĐ-CP ngày 28/7/2020 của Chính phủ quy định về Cơ sở Dữ liệu hộ tịch điện tử, đăng ký hộ tịch trực tuyến và Thông tư số 03/2023/TT-BTP sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Thông tư số 01/2022/TT-BTP ngày 04/01/2022 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Nghị định số 87/2020/NĐ-CP ngày 28/7/2020 của Chính phủ quy định về Cơ sở Dữ liệu hộ tịch điện tử, đăng ký hộ tịch trực tuyến, trong đó có quy định về các Mẫu hộ tịch điện tử tương tác tích hợp, phục vụ đăng ký hộ tịch trực tuyến. Trường hợp công dân lựa chọn nộp hồ sơ đăng ký hộ tịch trực tuyến, sử dụng Mẫu điện tử tương tác thì các thông tin cá nhân trong giấy tờ chứng minh về nhân thân, giấy tờ chứng minh nơi cư trú đã có trong Cơ sở Dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở Dữ liệu hộ tịch điện tử sẽ được Hệ thống điền tự động vào các trường thông tin tương ứng trong mẫu. Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục nghiên cứu, cải tiến tốt hơn theo hướng đề nghị của địa phương.

 

 

19. Về bổ sung quy định về đăng ký hộ tịch cho người không có giấy tờ tùy thân (không phải là người di cư tự do từ Campuchia)      

     

Cử tri kiến nghị:

Đề nghị Bộ Tư pháp bổ sung quy định về đăng ký hộ tịch cho người không có giấy tờ tùy thân (không phải là người di cư tự do từ Campuchia).

Bộ Tư pháp trả lời như sau:

Pháp luật Hộ tịch đã quy định cụ thể thẩm quyền, đối tượng, thủ tục đăng ký hộ tịch. Đối với các trường hợp không có giấy tờ tùy thân, địa phương chủ động kiểm tra, xác minh, đề xuất hướng xử lý. Nếu có vướng mắc đối với tình huống cụ thể, đề nghị trao đổi để Bộ Tư pháp kịp thời hướng dẫn.

 

 

20. Về xem xét cấp kinh phí để các cơ quan Thi hành án dân sự địa phương ký hợp đồng dịch vụ với Thừa phát lại để tống đạt các văn bản, thông báo và xác minh điều kiện thi hành án      

     

Cử tri kiến nghị:

Đề nghị Bộ Tư pháp chỉ đạo Tổng cục Thi hành án dân sự xem xét cấp kinh phí để các cơ quan Thi hành án dân sự địa phương ký hợp đồng dịch vụ với Thừa phát lại để tống đạt các văn bản, thông báo và xác minh điều kiện thi hành án.

Bộ Tư pháp trả lời như sau:

Ngày 26/11/2015, Quốc hội khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 107/2015/QH13 về thực hiện chế định Thừa phát lại, theo đó, chấm dứt việc thí điểm và cho thực hiện chế định Thừa phát lại trong phạm vi cả nước kể từ ngày 01/01/2016. Hiện nay, Bộ Tài chính chưa cấp riêng kinh phí cho nhiệm vụ chi đối với hoạt động liên quan đến Thừa phát lại của Hệ thống Thi hành án dân sự. Vì vậy, trên cơ sở kinh phí chi thường xuyên hằng năm, các cơ quan Thi hành án dân sự nói chung trong đó có cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Kiên Giang chủ động cân đối kinh phí được giao, ký hợp đồng với Văn phòng Thừa phát lại thực hiện các nội dung về tống đạt các văn bản, thông báo và xác minh điều kiện thi hành án theo quy định.

Bộ Tư pháp xin ghi nhận kiến nghị của địa phương, trong thời gian tới Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục chỉ đạo Tổng cục Thi hành án dân sự nghiên cứu đề nghị cơ quan có thẩm quyền cấp kinh phí cho hoạt động chuyên môn Thi hành án dân sự.

[1] Tiểu dự án 1 thuộc Dự án 10 Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I: từ năm 2021 - 2025; Tiểu dự án 1 về Giảm nghèo về thông tin thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025; Thành phần số 8 nội dung 04 Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025.

Kim Yến