Chào mừng bạn đến với Cổng thông tin điện tử Văn phòng ĐĐBQH và HĐND tỉnh An Giang

Cổng Thông tin điện tử

VĂN PHÒNG ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VÀ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN

tỉnh An Giang

Đóng góp ý kiến đối với Dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi)

Ngày đăng 22/05/2020

Xem với cở chữ : A- A A+

1. Tại Khoản 1 Điều 3 Dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi) quy định: Chấp thuận chủ trương đầu tư là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận về mục tiêu, địa điểm, quy mô, tiến độ, thời hạn, nhà đầu tư hoặc phương thức lựa chọn nhà đầu tư và các cơ chế, chính sách đặc biệt (nếu có) để thực hiện dự án đầu tư theo quy định tại các Điều 31, 32 và 33của Luật này”. Đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu bổ sung nội dung Tên dự án đầu tư để thuận tiện trong việc theo dõi, quản lý dự án.

2. Tại Điểm c Khoản 3 Điều 27 Dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi) quy định : “Trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, nhà đầu tư nước ngoài thực hiện thủ tục đăng ký góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp vào tổ chức kinh tế trước khi thay đổi thành viên, cổ đông nếu thuộc một trong các trường hợp sau: …c) Nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp của tổ chức kinh tế có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại đảo và xã, phường, thị trấn biên giới, ven biển hoặc khu vực khác có ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh”.

Theo quy định này, có thể hiểu chỉ khi nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp của tổ chức kinh tế có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại đảo và xã, phường, thị trấn biên giới, ven biển hoặc khu vực khác có ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh thì mới cần thực hiện thủ tục đầu tư theo hình thức đăng ký góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp.

Dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi) chưa đề cập đến vấn đề tổ chức kinh tế chỉ thuê địa điểm tại đảo và xã, phường, thị trấn biên giới, ven biển hoặc khu vực khác có ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh để thực hiện hoạt động đăng ký doanh nghiệp.

Đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu bổ sung quy định đối với trường hợp nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp của tổ chức kinh tế chỉ thuê địa điểm tại đảo và xã, phường, thị trấn biên giới, ven biển hoặc khu vực khác có ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh.

3. Tại Khoản 2 Điều 30 Dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi) quy định: “Đối với dự án thuộc diện chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời thuộc diện đấu giá quyền sử dụng đất hoặc đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thì cơ quan có thẩm quyền thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư và giao cơ quan có thẩm quyền tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất hoặc đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư”.

Đề nghị Ban soạn thảo làm rõ trường hợp dự án vừa thuộc diện chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời thuộc diện đấu giá quyền sử dụng đất hoặc đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thì trình tự thực hiện các bước như thế nào, thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư thực hiện trước hay sau thủ tục đấu giá quyền sử dụng đất hoặc đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư.

4. Tại Điểm a Khoản 1 Điều 39 Dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi) quy định: “Cơ quan đăng ký đầu tư cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với các dự án đầu tư thuộc diện chấp thuận chủ trương đầu tư theo quy định tại các Điều 31, 32 và 33 của Luật này: a) Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được các văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư đối với dự án thuộc diện cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư;…”.

Tại Khoản 4 Điều 40 Dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi) quy định: “Cơ quan tiếp nhận hồ sơ dự án đầu tư là cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, trừ trường hợp quy định tại các Điều 35 và Điều 36 của Luật này”.

Tại Điều 35 và 36 Dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi) quy định Trình tự, thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư của Quốc hội và của Thủ tướng Chính phủ, nhà đầu tư nộp hồ sơ dự án đầu tư theo quy định của Luật này cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Từ quy định trên có thể hiểu đối với dự án đầu tư thuộc diện cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, sau khi Cơ quan đăng ký đầu tư nhận được chấp thuận chủ trương đầu tư của Quốc hội hoặc của Thủ tướng Chính phủ sẽ cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mà không cần có hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu quy định lại nội dung này cho phù hợp để cơ quan đăng ký đầu tư có thể lưu trữ hồ sơ đăng ký đầu tư theo Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đã cấp.

5. Tại Điểm d Khoản 2 Điều 39 Dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi) quy định: Đối với dự án đầu tư không thuộc diện chấp thuận chủ trương đầu tư theo quy định tại các Điều 31, 32 và 33 của Luật này, nhà đầu tư được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư nếu đáp ứng các điều kiện sau: ….d) Đáp ứng điều kiện về suất đầu tư trên một diện tích đất, số lượng lao động sử dụng (nếu có)”.

Đề nghị Ban soạn thảo làm rõ nội dung suất đầu tư trên một diện tích đất được quy định dựa trên tiêu chuẩn, căn cứ nào.

6. Tại Khoản 3 Điều 42 Dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi) quy định: Nhà đầu tư có dự án đầu tư đã được chấp thuận chủ trương đầu tư phải thực hiện thủ tục điều chỉnh chủ trương đầu tư nếu thuộc một trong các trường hợp sau: a) Thay đổi, bổ sung mục tiêu của dự án đầu tư; b) Thay đổi quy mô diện tích đất sử dụng trên 10% hoặc trên 30 ha, thay đổi địa điểm đầu tư; c) Tăng tổng vốn đầu tư từ 20% trở lên làm thay đổi quy mô, công suất của dự án đầu tư; d) Điều chỉnh kéo dài tiến độ đầu tư vượt quá 12 tháng so với tiến độ đầu tư quy định tại văn bản chấp thuận chủ trương lần đầu, đ) Điều chỉnh thời hạn hoạt động của dự án đầu tư; e) Thay đổi công nghệ đã được thẩm định, lấy ý kiến trong quá trình chấp thuận chủ trương đầu tư; g) Thay đổi nhà đầu tư trước khi dự án khai thác, vận hành hoặc điều kiện đối với nhà đầu tư (nếu có)”.

Như vậy, đối với các dự án thuộc diện chấp thuận chủ trương đầu tư và không thuộc diện cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, khi điều chỉnh các nội dung về: Thay đổi quy mô diện tích đất sử dụng dưới 10% hoặc dưới 30 ha; Tăng tổng vốn đầu tư dưới 20%; Điều chỉnh kéo dài tiến độ đầu tư không vượt quá 12 tháng so với tiến độ đầu tư quy định tại văn bản chấp thuận chủ trương lần đầu thì trình tự, thủ tục thực hiện như thế nào. Đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu bổ sung làm rõ quy định về nội dung này.

7. Tại Điểm g Khoản 1 Điều 32 Dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi) quy định Thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ: “…g) Dự án xây dựng nhà ở (để bán, cho thuê, cho thuê mua), khu đô thị có quy mô từ 50 ha trở lên….”. Tuy nhiên, theo quy định của Luật Đầu tư năm 2014, trường hợp này thuộc thẩm quyền Quyết định chủ trương đầu tư của Ủy ban nhân dân tỉnh.

Tại Điểm d Khoản 1 Điểu 33 Dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi) quy định Thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh: “…d) Xây dựng và kinh doanh sân gôn”. Tuy nhiên, theo quy định của Luật Đầu tư năm 2014, trường hợp này thuộc thẩm quyền Quyết định chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ.

Đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu bổ sung quy định tại Điều 79 Dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi) về Điều khoản chuyển tiếp hướng dẫn thủ tục điều chỉnh đối với các loại hình dự án nêu trên.

8. Tại Điểm b Khoản 1 Điều 33 Dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi) quy định Thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh: “Trừ các dự án quy định tại Điều 31 và Điều 32 của Luật này, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư đối với các dự án sau đây:…b) Dự án có đề nghị giao đất, cho thuê đất và không thuộc một trong các trường hợp: đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chuyển nhượng tài sản gắn liền với đất, thuê quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai;…”.

Tại Điều 193 Luật Đất đai quy định Tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân được nhận chuyển nhượng, nhận góp vốn, thuê quyền sử dụng đất nông nghiệp để thực hiện dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp khi có đủ các điều kiện sau đây: 1. Có văn bản chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với tổ chức kinh tế nhận chuyển nhượng, nhận góp vốn, thuê quyền sử dụng đất nông nghiệp để thực hiện dự án; 2. Mục đích sử dụng đối với diện tích đất nhận chuyển nhượng, nhận góp vốn, thuê quyền sử dụng đất phải phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; 3. Đối với đất chuyên trồng lúa nước thì phải thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 134 của Luật này”.

Như vậy, nếu thực hiện theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 33 Dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi) sẽ không phù hợp theo quy định của Điều 193 Luật Đất đai. Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu điều chỉnh nội dung trên cho phù hợp để tránh dẫn đến sự không đồng bộ giữa Luật Đầu tư và Luật Đất đai.

Kim Yến